Chính trị và Ngôn ngữ Anh
Tài liệu của George Orwell.
Tài liệu này vẫn được bảo vệ bản quyền ở một số khu vực pháp lý, bao gồm Hoa Kỳ, và được sao chép tại đây với sự cho phép của Orwell Estate. Nếu bạn trân trọng những tài nguyên này, vui lòng cân nhắc quyên góp hoặc tham gia với chúng tôi với tư cách là một Người bạn để giúp duy trì chúng cho độc giả khắp mọi nơi.
Hầu hết những người quan tâm đến vấn đề này đều thừa nhận rằng tiếng Anh đang ở trong tình trạng tồi tệ, nhưng người ta thường cho rằng chúng ta không thể làm gì để thay đổi điều đó bằng những hành động có ý thức. Nền văn minh của chúng ta đang suy đồi, và ngôn ngữ của chúng ta – theo lập luận này – chắc chắn phải chịu chung số phận sụp đổ. Từ đó suy ra rằng bất kỳ cuộc đấu tranh nào chống lại việc lạm dụng ngôn ngữ chỉ là một sự hoài cổ ủy mị, giống như việc thích đèn cầy hơn đèn điện hay xe ngựa hơn máy bay. Ẩn dưới quan điểm này là niềm tin nửa vời rằng ngôn ngữ là một sự phát triển tự nhiên, chứ không phải là một công cụ mà chúng ta có thể định hình theo mục đích của mình.
Tuy nhiên, rõ ràng là sự suy thoái của một ngôn ngữ cuối cùng luôn có nguyên nhân chính trị và kinh tế: nó không chỉ đơn thuần do ảnh hưởng xấu của một số nhà văn cá biệt. Nhưng một hệ quả có thể trở thành một nguyên nhân mới, củng cố nguyên nhân ban đầu và tạo ra cùng một hiệu ứng theo cách ngày càng trầm trọng hơn, lặp đi lặp lại vô hạn. Một người có thể tìm đến rượu vì anh ta cảm thấy mình là kẻ thất bại, và rồi lại càng thất bại hơn vì uống rượu. Điều tương tự cũng đang xảy ra với tiếng Anh. Nó trở nên xấu xí và thiếu chính xác vì suy nghĩ của chúng ta ngu ngốc, nhưng sự cẩu thả trong ngôn ngữ lại khiến chúng ta càng dễ có những suy nghĩ ngu ngốc hơn. Điểm mấu chốt là quá trình này có thể đảo ngược. Tiếng Anh hiện đại, đặc biệt là tiếng Anh viết, đầy rẫy những thói quen xấu lây lan qua việc bắt chước, nhưng nếu sẵn sàng bỏ công sức, chúng ta có thể tránh được chúng. Nếu loại bỏ được những thói quen này, ta sẽ suy nghĩ rõ ràng hơn, và suy nghĩ rõ ràng là bước đầu tiên cần thiết để tái sinh chính trị: vì vậy, cuộc chiến chống lại tiếng Anh tồi không phải là chuyện phù phiếm và cũng không chỉ là mối quan tâm riêng của các nhà văn chuyên nghiệp. Tôi sẽ quay lại vấn đề này sau, và hy vọng đến lúc đó, những gì tôi vừa nói sẽ trở nên rõ ràng hơn. Trong khi chờ đợi, dưới đây là năm ví dụ về cách mà tiếng Anh ngày nay thường được viết.
Năm đoạn văn này không được chọn vì chúng đặc biệt tệ – tôi có thể đưa ra những ví dụ còn tệ hơn nhiều – mà vì chúng minh họa những lối tư duy méo mó mà chúng ta hiện đang mắc phải. Chúng có thể thấp hơn mức trung bình một chút, nhưng vẫn là những ví dụ tiêu biểu. Tôi sẽ đánh số để có thể tham chiếu lại khi cần:
Thật vậy, tôi không chắc liệu có đúng không khi nói rằng Milton, người từng được xem là một Shelley thế kỷ XVII, đã không trở thành, qua những trải nghiệm ngày càng cay đắng theo từng năm, một nhân vật xa lạ hơn (đúng như nguyên văn) [sic] đối với người sáng lập giáo phái Dòng Tên mà ông không thể nào dung thứ.
- Giáo sư Harold Laski (Tiểu luận về Tự do Ngôn luận).
Trên hết, chúng ta không thể tùy tiện đùa giỡn với kho thành ngữ bản địa, vốn quy định những cách kết hợp từ ngữ kỳ quặc, chẳng hạn như việc dùng put up with (cố chịu đựng) thay vì tolerate (chấp nhận chịu đựng), hay put at a loss (khiến ai đó hoang mang) thay vì bewilder (làm bối rối hoàn toàn).
- Giáo sư Lancelot Hogben (Interglossia).
Một mặt, chúng ta có một nhân cách tự do: theo định nghĩa, nó không mắc chứng thần kinh, vì nó không có xung đột hay giấc mơ. Những ham muốn của nó, nếu có, đều minh bạch, bởi chúng chỉ đơn thuần là những gì được sự chấp thuận của thể chế giữ ở tuyến đầu của ý thức; một mô hình thể chế khác sẽ thay đổi số lượng và cường độ của chúng; trong đó có rất ít điều là tự nhiên, không thể giản lược hoặc mang tính nguy hiểm về mặt văn hóa. Nhưng mặt khác, chính mối liên kết xã hội cũng không gì khác ngoài sự phản chiếu lẫn nhau của những bản thể vững chắc này. Hãy nhớ lại định nghĩa về tình yêu. Đây chẳng phải là hình ảnh hoàn hảo của một giới học thuật nhỏ bé hay sao? Trong tấm gương phản chiếu vô tận này, liệu có chỗ nào cho nhân cách hay tình huynh đệ không?
- Tiểu luận về tâm lý học trong Chính trị (New York).
Tất cả những ‘kẻ tốt nhất’ từ các câu lạc bộ quý ông, và tất cả các đại úy Phát xít cuồng loạn, đoàn kết trong lòng căm thù chung đối với chủ nghĩa xã hội và sự kinh hãi thú tính trước làn sóng dâng cao của phong trào cách mạng quần chúng. Chúng đã chuyển sang hành động khiêu khích, đốt phá tàn bạo, lan truyền những huyền thoại thời trung cổ về giếng nước bị đầu độc, để hợp pháp hóa việc tiêu diệt các tổ chức vô sản của chính chúng, đồng thời kích động tầng lớp tiểu tư sản đang hoang mang rơi vào cơn cuồng nhiệt sô-vanh, nhằm chống lại con đường cách mạng thoát khỏi khủng hoảng.
- Từ một tờ truyền đơn Cộng sản.
Nếu một tinh thần mới được truyền vào đất nước già cỗi này, thì có một cuộc cải cách gai góc và gây tranh cãi nhất định phải được giải quyết, đó chính là việc nhân bản hóa và vực dậy BBC. Sự rụt rè ở đây sẽ thể hiện sự mục ruỗng và suy thoái của linh hồn. Trái tim nước Anh có thể vẫn khỏe mạnh và đập mạnh mẽ, chẳng hạn, nhưng tiếng gầm của sư tử Anh lúc này lại giống như Bottom trong Giấc mộng đêm hè của Shakespeare – hiền lành như một chú chim bồ câu non. Một nước Anh mạnh mẽ không thể tiếp tục mãi mãi bị bôi nhọ trước thế giới, hay đúng hơn là trước đôi tai của thế giới, bởi những âm điệu ẻo lả, kiêu kỳ của Langham Place, trâng tráo giả danh là "tiếng Anh chuẩn". Khi "Tiếng nói nước Anh" vang lên lúc chín giờ, thì thà nghe những âm ‘h’ được bỏ qua một cách chân thực còn hơn là thứ giọng điệu kênh kiệu, phô trương, bị kìm nén, giả tạo của những cô gái rụt rè nhưng vô tội, cất tiếng như mèo con đang kêu.
- Thư gửi Tribune.
Mỗi đoạn văn trên đều có những lỗi riêng, nhưng ngoài sự xấu xí có thể tránh được, chúng đều có chung hai đặc điểm. Thứ nhất là sự cũ kỹ trong hình ảnh; thứ hai là sự thiếu chính xác. Người viết hoặc có một ý tưởng nhưng không thể diễn đạt được, hoặc vô tình nói ra một điều gì khác, hoặc gần như không quan tâm liệu lời mình viết có thực sự mang ý nghĩa gì hay không. Sự pha trộn giữa mơ hồ và kém cỏi này là đặc trưng rõ rệt nhất của văn xuôi tiếng Anh hiện đại, đặc biệt là trong bất kỳ loại văn bản chính trị nào. Ngay khi một số chủ đề nhất định được nêu ra, những điều cụ thể lập tức tan biến thành trừu tượng, và dường như không ai có thể nghĩ ra một cách diễn đạt không sáo mòn: văn xuôi ngày càng ít đi những từ ngữ được chọn vì ý nghĩa của chúng, mà ngày càng nhiều những cụm từ được ghép nối một cách máy móc, chẳng khác nào những tấm ván ghép của một chuồng gà lắp ráp sẵn. Dưới đây, tôi sẽ liệt kê một số thủ thuật phổ biến mà người viết thường dùng để né tránh việc thực sự xây dựng câu văn có ý nghĩa, kèm theo ghi chú và ví dụ minh họa.
Ẩn dụ chết [Dying metaphor]. Một phép ẩn dụ mới giúp tư duy sắc bén hơn bằng cách gợi lên một hình ảnh trực quan, trong khi một ẩn dụ đã hoàn toàn "chết" về mặt kỹ thuật (chẳng hạn ý chí sắt đá [iron resolution]) về cơ bản đã trở thành một từ thông dụng bình thường và có thể được dùng mà không làm giảm đi sự sinh động của câu. Nhưng giữa hai loại này là một kho khổng lồ những ẩn dụ đã hao mòn đến mức mất hết sức gợi tả, chỉ còn được sử dụng vì người viết lười suy nghĩ để tự tạo ra cách diễn đạt mới. Một số ví dụ: thay đổi liên tục, đứng lên bảo vệ, tuân thủ quy tắc, chà đạp không thương tiếc, sát cánh bên nhau, vô tình giúp đỡ, không có ý đồ riêng, nguyên liệu cho cối xay, đục nước béo cò, việc cần làm ngay, gót chân Achilles, bài hát thiên nga, ổ phát sinh [ring the changes on, take up the cudgels for, toe the line, ride roughshod over , stand shoulder to shoulder with, play into the hands of, no axe to grind, grist to the mill, fishing in troubled waters, on the order of the day, Achilles’ heel, swan song, hotbon]. Nhiều cụm từ trong số này được sử dụng mà người viết thậm chí không hiểu rõ ý nghĩa thực sự của chúng (ví dụ, rift nghĩa là gì?), và các ẩn dụ không tương thích thường bị trộn lẫn, là một dấu hiệu chắc chắn rằng người viết không quan tâm đến điều mình đang nói. Một số ẩn dụ hiện nay đã bị bóp méo khỏi ý nghĩa ban đầu mà người dùng không hề nhận ra. Ví dụ, cụm từ tuân thủ quy tắc [toe the line] đôi khi bị viết sai thành kéo theo đường dây [tow the line]. Một ví dụ khác là búa và đe [the hammer and the anvil], giờ thường được dùng với hàm ý rằng cái đe chịu thiệt hại nhiều hơn. Trong thực tế, chính cái búa mới là thứ bị vỡ khi đập vào cái đe, chứ không phải ngược lại – một người viết có suy nghĩ sẽ tránh việc làm sai lệch ý nghĩa gốc của cụm từ này.
Cụm động từ giả tạo [Operators, or verbal false limbs]. Những cụm từ này giúp người viết khỏi phải chọn động từ và danh từ thích hợp, đồng thời làm câu văn dài ra với những âm tiết thừa thãi, tạo ra một vẻ đối xứng giả tạo. Các cụm từ điển hình gồm: làm mất hiệu lực, gây bất lợi cho, cho thấy không thể chấp nhận được, tiếp xúc với, chịu ảnh hưởng bởi, làm phát sinh, cung cấp cơ sở cho, có tác động là, đóng vai trò chủ đạo trong, tạo ảnh hưởng rõ rệt, có hiệu lực, thể hiện xu hướng, phục vụ mục đích là v.v [render inoperative, militate against, prove unacceptable, make contact with, be subject to, give rise to, give grounds for, have the effect of, play a leading part (role) in, make itself felt, take effect, exhibit a tendency to, serve the purpose of, etc.]. Điểm chung của những cách diễn đạt này là loại bỏ các động từ đơn giản. Thay vì dùng một từ như phá vỡ, dừng lại, làm hỏng, sửa chữa, giết [break, stop, spoil, mend, kill], người viết lại biến nó thành một cụm từ phức tạp bằng cách thêm danh từ hoặc tính từ vào một động từ mang nghĩa chung chung như chứng minh, phục vụ, hình thành, đóng vai trò, làm cho [prove, serve, form, play, render]. Ngoài ra, thể bị động cũng thường được ưu tiên hơn thể chủ động, và các cấu trúc danh từ được sử dụng thay vì động danh từ (chẳng hạn "thông qua việc kiểm tra" thay vì "bằng cách kiểm tra" [by examination of thay vì by examining]). Phạm vi động từ còn bị thu hẹp hơn nữa bởi các cấu tạo từ có hậu tố -ize và de-, trong khi những câu sáo rỗng lại được làm ra vẻ sâu sắc nhờ các cấu trúc phủ định vòng vo kiểu not un- (“không hẳn là không giống”, thay vì "giống"). Các liên từ và giới từ đơn giản bị thay thế bằng những cụm từ rườm rà như đối với, xét đến, thực tế rằng, nhờ vào, xét về, vì lợi ích của, trên giả thuyết rằng [with respect to,having regard to, the fact that, by dint of, in view of, in the interests of, on the hypothesis that]; và phần cuối câu, các câu văn được cứu khỏi kết thúc nhạt nhẽo bằng những cụm từ khoa trương nhưng vô nghĩa như rất đáng mong đợi, không thể bỏ qua, một diễn biến có thể dự đoán trong tương lai gần, đáng được xem xét nghiêm túc, được đưa đến một kết luận thỏa đáng [greatly to be desired, cannot be left out of account, a development to be expected in the near future, deserving of serious consideration, brought to a satisfactory conclusion] v.v.
Từ ngữ phô trương [Pretentious diction]. Những từ như hiện tượng, yếu tố, cá nhân (danh từ), khách quan, dứt khoát, hiệu quả, gần như, cơ bản, chính yếu, thúc đẩy, tạo thành, thể hiện, khai thác, sử dụng, loại bỏ, thanh lý [phenomenon, element, individual (as noun), objective, categorical, effective, virtual, basic, primary, promote, constitute, exhibit, exploit, utilize, eliminate, liquidate] được dùng để tô vẽ những phát biểu đơn giản và tạo ra vẻ khách quan có tính khoa học cho những lập luận đầy thiên vị. Các tính từ như mang tính đột phá, hùng tráng, lịch sử, không thể quên, chiến thắng, cổ xưa, tất yếu, không thể lay chuyển, thực sự [epoch-making, epic, historic, unforgettable, triumphant, age-old, inevitable, inexorable, veritable] được dùng để tôn vinh những quá trình bẩn thỉu của chính trị quốc tế, trong khi văn phong nhằm ca ngợi chiến tranh thường mang màu sắc cổ kính, với những từ đặc trưng như: vương quốc, ngai vàng, chiến xa, nắm đấm thép, đinh ba, thanh kiếm, tấm khiên, khiên nhỏ, ngọn cờ, ủng cao cổ, kèn lệnh [realm, throne, chariot, mailed fist, trident, sword, shield, buckler, banner, jackboot, clarion]. Những từ và cụm từ ngoại lai như ngõ cụt, chế độ cũ, nhân tố bất ngờ, với những thay đổi cần thiết, hiện trạng, đồng nhất hóa, thế giới quan [cul de sac, ancien régime, deus ex machina, mutatis mutandis, status quo, Gleichschaltung, Weltanschauung] được dùng để tạo ra vẻ văn hóa và thanh lịch. Ngoài các từ viết tắt hữu ích như i.e., e.g., và etc., hầu như không có lý do gì để sử dụng hàng trăm cụm từ nước ngoài đang phổ biến trong tiếng Anh hiện nay. Những người viết kém, đặc biệt là các tác giả thuộc lĩnh vực khoa học, chính trị và xã hội học, gần như luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng từ gốc Latin hay Hy Lạp thì sang trọng hơn từ gốc Anglo-Saxon, kết quả là những từ không cần thiết như đẩy nhanh, cải thiện, dự đoán, không liên quan, bị tách khỏi nguồn gốc, bí mật, dưới nước [expedite, ameliorate, predict, extraneous, deracinated, clandestine, sub-aqueous] cùng hàng trăm từ khác ngày càng lấn át các từ Anglo-Saxon tương đương[1]. Thuật ngữ đặc thù trong các bài viết theo văn phong Marxist (như linh cẩu, đao phủ, kẻ ăn thịt người, tiểu tư sản, bọn quý tộc này, tay sai, kẻ bợ đỡ, chó điên, Vệ binh Trắng, v.v. [hyena, hangman, cannibal, petty bourgeois, these gentry, lackey, flunkey, mad dog -, White Guard etc.]) phần lớn được dịch từ tiếng Nga, Đức hoặc Pháp; nhưng cách thông thường để tạo từ mới là ghép gốc Latin hoặc Hy Lạp với tiền tố hoặc hậu tố phù hợp, và khi cần thiết, thêm đuôi -ize để động từ hóa. Thường thì việc tự tạo ra những từ như vậy (phi khu vực hóa, không thể chấp nhận được, ngoại tình, không phân mảnh v.v. [deregionalize, impermissible, extramarital, non-fragmentatory etc.]) dễ hơn là nghĩ ra từ tiếng Anh phù hợp với ý nghĩa cần diễn đạt. Hệ quả chung là sự cẩu thả và mơ hồ ngày càng gia tăng.
Từ ngữ vô nghĩa [Meaningless words]. Trong một số loại văn bản, đặc biệt là phê bình nghệ thuật và phê bình văn học, việc bắt gặp những đoạn văn dài gần như hoàn toàn không có ý nghĩa là điều bình thường[2]. Những từ như lãng mạn, mềm dẻo, giá trị, nhân văn, chết, đa cảm, tự nhiên, sức sống [romantic, plastic, values, human, dead, sentimental, natural, vitality] khi được dùng trong phê bình nghệ thuật, hoàn toàn vô nghĩa, theo nghĩa chúng không những không chỉ ra bất kỳ đối tượng nào có thể xác định được, mà thậm chí người đọc cũng không mong đợi chúng làm vậy. Khi một nhà phê bình viết, "Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông X là chất sống động của nó", trong khi một người khác viết, "Điều ấn tượng ngay lập tức về tác phẩm của ông X là sự chết chóc kỳ lạ của nó", người đọc thường nhận điều này như một sự khác biệt đơn thuần về quan điểm. Nhưng nếu những từ như đen [black] và trắng [white] được dùng thay vì những từ lóng như chết [dead] và sống [living], anh ta sẽ nhận ra ngay rằng ngôn ngữ đang bị sử dụng sai cách. Nhiều từ ngữ chính trị cũng bị lạm dụng theo cách tương tự. Từ chủ nghĩa phát xít [Fascism] giờ không còn mang ý nghĩa nào ngoài việc biểu thị "một điều không mong muốn". Các từ như dân chủ, chủ nghĩa xã hội, tự do, yêu nước, hiện thực, công lý [democracy, socialism, freedom, patriotic, realistic, justice] mỗi từ đều có nhiều ý nghĩa khác nhau, mà các ý nghĩa này lại không thể dung hòa với nhau. Chẳng hạn, với từ dân chủ [democracy], không chỉ thiếu một định nghĩa chung được chấp nhận, mà ngay cả nỗ lực để định nghĩa nó cũng bị phản đối từ mọi phía. Hầu như ai cũng cảm thấy rằng khi ta gọi một quốc gia là dân chủ, ta đang khen ngợi nó: vì vậy, những người bảo vệ mọi loại chế độ đều tuyên bố chế độ đó là dân chủ, và lo sợ rằng nếu từ này có một định nghĩa cố định, họ sẽ không thể tiếp tục sử dụng nó. Những từ kiểu này thường được dùng theo cách cố tình không trung thực. Nghĩa là, người dùng chúng có một định nghĩa riêng trong đầu, nhưng lại để người nghe hiểu theo một nghĩa hoàn toàn khác. Những câu như “Thống chế Pétain là một người yêu nước thực sự”, “Báo chí Liên Xô là tự do nhất thế giới”, “Giáo hội Công giáo phản đối đàn áp” gần như luôn được nói ra với ý định đánh lừa người nghe. Các từ khác cũng bị sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau, trong hầu hết các trường hợp là với dụng ý không trung thực, bao gồm: giai cấp, toàn trị, khoa học, tiến bộ, phản động, tư sản, bình đẳng [class, totalitarian, science , progressive, reactionary, bourgeois, equality].
Bây giờ, sau khi đã liệt kê những thủ thuật lừa bịp và xuyên tạc này, tôi sẽ đưa ra một ví dụ khác về kiểu văn phong mà chúng dẫn đến. Lần này, bản chất của ví dụ sẽ mang tính giả tưởng. Tôi sẽ dịch một đoạn văn bằng tiếng Anh hay sang loại tiếng Anh hiện đại tệ hại nhất. Dưới đây là một câu Kinh Thánh nổi tiếng trong sách Truyền Đạo (Ecclesiastes):
"Tôi trở lại và thấy dưới ánh mặt trời, rằng cuộc đua không dành cho người nhanh, trận chiến không thuộc về kẻ mạnh, bánh mì không đến với người khôn ngoan, giàu sang không thuộc về người hiểu biết, ân huệ không dành cho người tài giỏi; nhưng thời gian và cơ hội xảy đến với tất cả họ."
[“I returned and saw under the sun, that the race is not to the swift, nor the battle to the strong, neither yet bread to the wise, nor yet riches to men of understanding, nor yet favour to men of skill; but time and chance happeneth to them all.”]
Đây là phiên bản tiếng Anh hiện đại:
"Việc xem xét khách quan các hiện tượng đương đại buộc ta phải kết luận rằng thành công hay thất bại trong các hoạt động mang tính cạnh tranh không có xu hướng tỷ lệ thuận với năng lực bẩm sinh, mà luôn tồn tại một yếu tố bất định đáng kể cần được cân nhắc."
[“Objective consideration of contemporary phenomena compels the conclusion that success or failure in competitive activities exhibits no tendency to be commensurate with innate capacity, but that a considerable element of the unpredictable must invariably be taken into aaccoun.”]
Đây là một sự nhại lại, nhưng không phải là một sự phóng đại quá mức. Ví dụ số 3 ở trên, chẳng hạn, chứa không ít đoạn văn tương tự kiểu tiếng Anh này. Có thể thấy rằng tôi chưa dịch hoàn toàn. Phần mở đầu và kết thúc của câu vẫn giữ khá sát ý nghĩa ban đầu, nhưng phần giữa – với những hình ảnh cụ thể như cuộc đua, trận chiến, bánh mì – đã bị hòa tan thành cụm từ mơ hồ “thành công hay thất bại trong các hoạt động mang tính cạnh tranh”. Điều này là không thể tránh khỏi, bởi không một tác giả hiện đại nào thuộc kiểu tôi đang đề cập – không ai có khả năng dùng những cụm từ như "việc xem xét khách quan các hiện tượng đương đại" – lại trình bày suy nghĩ của mình theo cách rõ ràng và chi tiết đến thế. Toàn bộ xu hướng của văn xuôi hiện đại là xa rời tính cụ thể. Bây giờ, hãy phân tích hai câu này kỹ hơn một chút. Câu đầu tiên có 49 từ nhưng chỉ chứa 60 âm tiết, và tất cả các từ đều là những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hằng ngày. Trong khi đó, câu thứ hai có 38 từ nhưng lên đến 90 âm tiết: 18 từ có gốc Latin và một từ có gốc Hy Lạp. Câu đầu chứa sáu hình ảnh sống động, chỉ có duy nhất một cụm từ "thời gian và cơ hội" có thể gọi là mơ hồ. Câu thứ hai không có bất kỳ cụm từ nào mới mẻ hay ấn tượng, và mặc dù có đến 90 âm tiết, nó chỉ truyền tải một phiên bản rút gọn của ý nghĩa trong câu đầu tiên. Vậy mà không thể phủ nhận rằng chính loại câu thứ hai đang ngày càng phổ biến trong tiếng Anh hiện đại. Tôi không có ý phóng đại. Kiểu viết này chưa phải là tuyệt đối thống trị, và ngay cả trong những trang viết tệ nhất, đôi khi vẫn xuất hiện một vài câu văn đơn giản. Tuy nhiên, nếu bạn hoặc tôi được yêu cầu viết vài dòng về sự bấp bênh của số phận con người, rất có thể chúng ta sẽ viết một câu gần giống với câu giả tưởng của tôi hơn là câu Truyền Đạo trên.
Như tôi đã cố gắng chỉ ra, lối viết hiện đại ở mức tệ nhất không phải là việc chọn từ vì ý nghĩa của chúng hay sáng tạo hình ảnh để làm rõ nghĩa hơn. Thay vào đó, nó là sự chắp vá những chuỗi từ dài đã được ai đó sắp xếp sẵn, rồi tô điểm kết quả bằng sự hào nhoáng giả tạo. Sức hút của cách viết này nằm ở sự dễ dàng. Khi đã quen, bạn sẽ thấy việc viết “Theo quan điểm của tôi, đây không phải là một giả định vô căn cứ” [In my opinion it is not an unjustifiable assumption that] dễ hơn – thậm chí nhanh hơn – so với chỉ đơn giản nói “Tôi nghĩ” [I think]. Khi sử dụng những cụm từ có sẵn, bạn không chỉ tránh được việc phải tìm kiếm từ ngữ phù hợp, mà còn không phải bận tâm đến nhịp điệu câu văn, vì những cụm từ này thường được sắp xếp sao cho nghe tương đối êm tai. Khi viết vội – chẳng hạn khi đọc cho thư ký ghi lại hoặc phát biểu trước công chúng – người ta dễ rơi vào một phong cách khoa trương, mang tính La-tinh hóa. Những cụm từ như “một vấn đề mà chúng ta nên ghi nhớ” [a consideration which we should do well to bear in mind] hay “một kết luận mà tất cả chúng ta đều dễ dàng đồng thuận” [a conclusion to which all of us would readily assent] có thể cứu vãn nhiều câu văn khỏi sự lủng củng. Việc sử dụng những phép ẩn dụ, so sánh và thành ngữ sáo mòn giúp tiết kiệm công sức tư duy, nhưng cái giá phải trả là ý nghĩa trở nên mơ hồ, không chỉ đối với người đọc mà ngay cả với chính người viết. Đây chính là nguồn gốc của những phép ẩn dụ lộn xộn. Mục đích duy nhất của ẩn dụ là gợi lên một hình ảnh trực quan. Khi những hình ảnh đó mâu thuẫn với nhau – như trong câu “Con bạch tuộc phát xít đã cất lên khúc thiên nga cuối cùng” [The Fascist octopus has sung its swan song] hay “Chiếc ủng sắt bị ném vào lò luyện” [the jackboot is thrown into the melting pot] – thì có thể chắc chắn rằng người viết không hình dung ra hình ảnh nào trong đầu; nói cách khác, họ không thực sự suy nghĩ. Hãy nhìn lại những ví dụ tôi đã đưa ra ở đầu bài viết. Giáo sư Laski (1) sử dụng năm phủ định trong một câu dài 53 từ. Một trong số đó là thừa, khiến toàn bộ đoạn văn trở nên vô nghĩa. Ngoài ra, ông còn mắc lỗi dùng từ, khi viết “alien” thay vì “akin”, làm câu văn thêm phần khó hiểu, cùng với một số cách diễn đạt vụng về không cần thiết, khiến ý nghĩa chung càng trở nên mơ hồ. Giáo sư Hogben (2) lại sử dụng một cách tùy tiện hình ảnh “một cỗ máy có thể kê đơn thuốc” và, trong khi phản đối cụm từ thông dụng “chịu đựng” [put up with], ông lại không buồn tra từ điển để xem từ “egregious” thực sự có nghĩa là gì. Câu (3), nếu xét theo cách khắt khe, thì hoàn toàn vô nghĩa – có lẽ người ta chỉ có thể đoán được ý định của tác giả nếu đọc toàn bộ bài viết chứa câu đó. Trong câu (4), tác giả phần nào biết mình muốn nói gì, nhưng một loạt cụm từ cũ kỹ làm nghẹt ý tưởng của ông, giống như bã trà làm tắc ống nước. Còn ở ví dụ (5), từ ngữ và ý nghĩa gần như đã tách rời nhau hoàn toàn. Những người viết theo lối này thường chỉ có một ý nghĩa cảm xúc chung chung – họ phản đối một điều gì đó và muốn thể hiện sự đồng tình với một điều khác – nhưng họ không thực sự quan tâm đến nội dung chi tiết của những gì mình đang nói. Một người viết cẩn trọng, trong mỗi câu mình viết, sẽ tự hỏi ít nhất bốn câu: Tôi đang cố gắng nói điều gì? Những từ nào sẽ diễn đạt điều đó? Hình ảnh hay thành ngữ nào sẽ làm rõ nghĩa hơn? Hình ảnh này có đủ mới mẻ để tạo hiệu ứng không? Và có lẽ anh ta còn tự hỏi thêm hai câu nữa: Tôi có thể diễn đạt ngắn gọn hơn không? Tôi có viết gì nghe khó chịu một cách không cần thiết không?Nhưng bạn không bắt buộc phải mất công đến vậy. Bạn có thể né tránh tất cả điều đó bằng cách đơn giản là thả lỏng đầu óc và để những cụm từ có sẵn tự động ùa vào. Chúng sẽ tự sắp xếp câu văn cho bạn – thậm chí ở một mức độ nào đó, còn suy nghĩ hộ bạn – và khi cần thiết, chúng sẽ làm một việc quan trọng: che giấu một phần ý nghĩa của chính bạn. Chính tại đây, mối liên hệ đặc biệt giữa chính trị và sự suy thoái của ngôn ngữ trở nên rõ ràng.
Trong thời đại của chúng ta, có thể nói rằng văn phong chính trị thường là một lối viết tệ hại. Khi điều đó không đúng, ta sẽ thấy rằng người viết thường là một kiểu kẻ nổi loạn nào đó, bày tỏ quan điểm cá nhân thay vì rập khuôn theo một “đường lối” nào đó. Tư tưởng chính thống, dù thuộc phe phái nào, dường như luôn đòi hỏi một lối viết khô khan, bắt chước máy móc. Các thuật ngữ chính trị xuất hiện trong các tờ rơi, bài xã luận, tuyên ngôn, sách trắng hay bài phát biểu của các thứ trưởng có thể khác nhau giữa các đảng phái, nhưng điểm chung là gần như không bao giờ ta bắt gặp trong đó một cách diễn đạt mới mẻ, sinh động hay sáng tạo. Khi nhìn một diễn giả mệt mỏi trên bục phát biểu lặp lại một cách máy móc những cụm từ quen thuộc – những hành động tàn ác dã man, gót sắt, chế độ chuyên chế nhuốm máu, các dân tộc tự do trên thế giới, sát cánh bên nhau [bestial atrocities, iron heel, blood-stained tyranny, free peoples of the world, stand shoulder to shoulder] – ta thường có một cảm giác kỳ lạ rằng mình không phải đang nhìn một con người bằng xương bằng thịt, mà là một hình nhân vô hồn. Cảm giác đó càng trở nên mạnh mẽ hơn khi ánh sáng phản chiếu vào cặp kính của diễn giả, biến chúng thành hai đĩa trống rỗng, dường như chẳng có đôi mắt nào phía sau. Và điều này không hề là tưởng tượng. Một người nói theo kiểu đó đã phần nào biến mình thành một cỗ máy. Những âm thanh phù hợp phát ra từ cổ họng anh ta, nhưng bộ não thì không hoạt động như khi anh ta tự chọn từ ngữ cho mình. Nếu bài phát biểu là một bài mà anh ta đã nói đi nói lại nhiều lần, có lẽ anh ta thậm chí còn không ý thức được mình đang nói gì, giống như khi ta lặp lại những câu đáp trong nhà thờ. Và trạng thái ý thức suy giảm này, dù không phải điều kiện bắt buộc, nhưng chắc chắn là môi trường thuận lợi cho sự tuân thủ chính trị.
Trong thời đại chúng ta, diễn ngôn và văn viết chính trị phần lớn là biện hộ cho những điều không thể biện hộ. Những thứ như việc duy trì ách thống trị của Anh tại Ấn Độ, các cuộc thanh trừng và trục xuất của Nga, việc thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản,hoàn toàn có thể được biện minh, nhưng chỉ bằng những lập luận quá tàn nhẫn để hầu hết mọi người có thể chấp nhận, và cũng không phù hợp với những mục tiêu mà các đảng phái chính trị tuyên bố theo đuổi. Vì vậy, ngôn ngữ chính trị chủ yếu dựa vào uyển ngữ, ngụy biện và sự mơ hồ đến mức khó nắm bắt. Những ngôi làng không có khả năng tự vệ bị không kích, cư dân bị đẩy ra vùng hoang dã, gia súc bị bắn bằng súng máy, những túp lều bị thiêu rụi bởi đạn cháy – điều này được gọi là bình định. Hàng triệu nông dân bị tước đoạt đất đai, phải lang thang trên những con đường chỉ với số đồ đạc ít ỏi họ có thể mang theo – điều này được gọi là di dời dân cư hoặc điều chỉnh biên giới. Con người bị giam cầm nhiều năm không xét xử, bị bắn vào gáy, hoặc bị đày đến các trại lao động ở Bắc Cực để chết dần vì bệnh còi xương – điều này được gọi là loại bỏ các phần tử không đáng tin cậy. Loại ngôn ngữ này cần thiết nếu người ta muốn đặt tên cho sự vật mà không gợi lên hình ảnh tinh thần về chúng. Hãy thử tưởng tượng một giáo sư người Anh sống sung túc đang biện hộ cho chế độ toàn trị Liên Xô. Ông ta không thể nói thẳng rằng: "Tôi tin rằng việc thủ tiêu đối thủ chính trị là chính đáng nếu nó mang lại kết quả tốt." Thay vào đó, có lẽ ông ta sẽ nói một câu như thế này:
“Mặc dù thừa nhận rằng chế độ Xô Viết có những đặc điểm mà người theo chủ nghĩa nhân đạo có thể cảm thấy đáng tiếc, tôi cho rằng chúng ta phải đồng ý rằng một số hạn chế đối với quyền đối lập chính trị là hệ quả không thể tránh khỏi trong các giai đoạn chuyển tiếp, và rằng những khó khăn mà nhân dân Nga phải chịu đựng đã được đền đáp xứng đáng bằng những thành tựu cụ thể.”
Lối viết khoa trương bản thân nó cũng là một dạng uyển ngữ. Một loạt từ gốc Latinh trút xuống sự thật như một lớp tuyết mềm, làm mờ đường nét và che phủ mọi chi tiết. Kẻ thù lớn nhất của ngôn ngữ rõ ràng là sự thiếu chân thành. Khi có một khoảng cách giữa mục tiêu thực sự và mục tiêu được tuyên bố, người ta gần như theo bản năng mà viện đến những từ ngữ dài dòng và những lối nói rập khuôn đã cũ, giống như một con mực phun mực để che giấu chính mình. Trong thời đại của chúng ta, không có chuyện “đứng ngoài chính trị.” Mọi vấn đề đều là vấn đề chính trị, và bản thân chính trị là một mớ hỗn độn của dối trá, lẩn tránh, ngu xuẩn, thù hận và tâm thần phân liệt. Khi bầu không khí chung trở nên tồi tệ, ngôn ngữ chắc chắn phải gánh chịu hậu quả. Khi bầu không khí chung trở nên tồi tệ, ngôn ngữ cũng không thể tránh khỏi bị tổn hại. Tôi cho rằng – đây chỉ là một phỏng đoán mà tôi không đủ hiểu biết để xác minh – tiếng Đức, tiếng Nga và tiếng Ý đều đã suy thoái trong vòng mười đến mười lăm năm qua do ảnh hưởng của chế độ độc tài.
Nhưng nếu tư duy có thể làm băng hoại ngôn ngữ, thì ngôn ngữ cũng có thể làm băng hoại tư duy. Một cách diễn đạt kém cỏi có thể lan truyền qua thói quen và sự bắt chước, ngay cả giữa những người đáng ra phải biết rõ hơn. Kiểu ngôn ngữ suy đồi mà tôi đang phân tích thực ra lại khá tiện lợi theo một số cách. Những cụm từ như một giả định không hoàn toàn phi lý, còn nhiều điều đáng mong đợi, chẳng mang lại lợi ích gì, một yếu tố mà ta nên cân nhắc kỹ lưỡng [a not unjustifiable assumption, leaves much to be desired, would serve no good purpose, a consideration which we should do well to bear in mind] luôn là một cám dỗ thường trực, giống như một vỉ thuốc giảm đau luôn trong tầm tay. Hãy nhìn lại bài luận này, chắc chắn bạn sẽ thấy tôi cũng nhiều lần phạm phải chính những lỗi mà tôi đang phê phán. Sáng nay, tôi nhận được một tập tài liệu bàn về tình hình ở Đức. Tác giả nói rằng ông ta "cảm thấy bị thôi thúc" phải viết nó. Tôi mở ngẫu nhiên một trang và đây là một trong những câu đầu tiên tôi thấy: “Các đồng minh không chỉ có cơ hội thực hiện một sự chuyển đổi triệt để trong cấu trúc xã hội và chính trị của Đức theo cách tránh được phản ứng dân tộc chủ nghĩa ngay tại nước này, mà đồng thời còn có thể đặt nền móng cho một châu Âu hợp tác và thống nhất.” Bạn thấy đấy, ông ta "cảm thấy bị thôi thúc" viết – nghĩa là có lẽ ông ta tin rằng mình có điều gì đó mới mẻ để nói – nhưng những từ ngữ của ông ta, như những con ngựa kỵ binh, tự động xếp thành một khuôn mẫu quen thuộc, buồn tẻ. Sự xâm nhập của những cụm từ rập khuôn (đặt nền móng, đạt được một sự chuyển đổi triệt để [lay the foundations, achieve a radical transformation]) vào tâm trí chỉ có thể được ngăn chặn nếu ta luôn cảnh giác với chúng, bởi mỗi cụm từ như vậy đều làm tê liệt một phần não bộ của ta.
Trước đó, tôi đã nói rằng sự suy thoái của ngôn ngữ có lẽ có thể chữa được. Những ai phủ nhận điều này, nếu có đưa ra lập luận nào, thì sẽ cho rằng ngôn ngữ chỉ đơn thuần phản ánh tình trạng xã hội hiện tại, và rằng chúng ta không thể tác động đến sự phát triển của nó chỉ bằng cách can thiệp trực tiếp vào từ ngữ và cấu trúc câu. Nếu xét về giọng điệu hoặc tinh thần chung của một ngôn ngữ, điều này có thể đúng, nhưng nếu xét chi tiết thì không hẳn vậy. Những từ ngữ và cách diễn đạt ngớ ngẩn đã nhiều lần biến mất, không phải do một quá trình tiến hóa tự nhiên, mà do hành động có chủ ý của một nhóm thiểu số. Hai ví dụ gần đây là thử mọi cách [explore every avenue] và lật từng viên đá [leave no stone unturned], vốn đã bị loại bỏ bởi lời chế giễu của một số nhà báo. Có rất nhiều phép ẩn dụ sáo rỗng khác cũng có thể bị loại trừ theo cách tương tự, nếu đủ người quan tâm đến việc này. Và chúng ta cũng có thể khiến cấu trúc not un- trở nên lố bịch đến mức không ai còn muốn dùng, giảm bớt số lượng từ gốc Latinh và Hy Lạp trong một câu thông thường, loại bỏ các cụm từ vay mượn nước ngoài cùng những thuật ngữ khoa học lạc lõng, và nói chung là khiến lối viết khoa trương trở nên lỗi thời. Nhưng tất cả những điều này chỉ là những vấn đề nhỏ. Việc bảo vệ tiếng Anh đòi hỏi nhiều hơn thế, và có lẽ tốt nhất là bắt đầu bằng cách nói rõ những gì việc này không bao hàm.
Trước hết, việc bảo vệ ngôn ngữ không liên quan đến chủ nghĩa hoài cổ, hay việc cứu vãn những từ ngữ hay cách diễn đạt đã lỗi thời, hay đến việc thiết lập một thứ “tiếng Anh chuẩn” bất biến. Ngược lại, điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi từ ngữ hoặc thành ngữ đã mất đi tính hữu dụng của chúng. Nó cũng không liên quan đến việc tuân thủ chặt chẽ ngữ pháp và cú pháp – những thứ không quan trọng miễn là người viết truyền tải được ý nghĩa của mình – hay đến việc tránh sử dụng các từ vựng có nguồn gốc Mỹ, hay đến việc có một “văn phong chuẩn mực.” Mặt khác, việc bảo vệ ngôn ngữ không đồng nghĩa với việc tạo ra sự đơn giản giả tạo hay cố tình khiến tiếng Anh viết trở nên quá giống tiếng Anh nói. Nó cũng không có nghĩa là trong mọi trường hợp phải ưu tiên dùng từ gốc Saxon thay vì từ gốc Latinh, dù nguyên tắc chung vẫn là sử dụng những từ ít nhất và ngắn nhất có thể mà vẫn diễn đạt đủ ý nghĩa. Điều quan trọng nhất là để ý nghĩa quyết định từ ngữ, chứ không phải ngược lại. Trong văn xuôi, điều tệ nhất có thể làm với từ ngữ là đầu hàng trước chúng. Khi bạn nghĩ về một vật thể cụ thể, bạn nghĩ mà không cần lời, và sau đó, nếu muốn mô tả thứ bạn đã hình dung, bạn có lẽ sẽ tìm kiếm cho đến khi tìm được những từ chính xác dường như phù hợp với nó. Khi nghĩ về một vật thể cụ thể, ta suy nghĩ mà không dùng từ; chỉ khi muốn mô tả nó, ta mới tìm kiếm những từ chính xác để phù hợp với hình ảnh trong đầu. Nhưng khi suy nghĩ về điều gì đó trừu tượng, ta có xu hướng dùng từ ngay từ đầu, và nếu không có sự kiểm soát có ý thức, ngôn ngữ sáo rỗng sẵn có sẽ tự động len vào, làm mờ hoặc thậm chí thay đổi ý nghĩa thực sự. Có lẽ tốt hơn là trì hoãn việc sử dụng từ ngữ càng lâu càng tốt, cố gắng làm rõ ý nghĩ của mình thông qua hình ảnh và cảm giác, sau đó mới chọn – chứ không phải chấp nhận một cách thụ động – những cụm từ phù hợp nhất để diễn đạt. Tiếp đó, cần quay lại đánh giá xem những từ ngữ này sẽ tạo ra ấn tượng gì đối với người đọc. Nỗ lực cuối cùng này của tâm trí sẽ loại bỏ những hình ảnh hỗn tạp hoặc sáo mòn, những cụm từ rập khuôn, những sự lặp lại không cần thiết, cũng như mọi sự mơ hồ và sáo rỗng. Tuy nhiên, đôi khi ta vẫn có thể băn khoăn về tác động của một từ hay một cụm từ, và khi bản năng không đủ đáng tin cậy, ta cần có những quy tắc để dựa vào. Tôi nghĩ rằng những quy tắc sau đây có thể áp dụng cho hầu hết các trường hợp:
i. Không bao giờ dùng phép ẩn dụ, so sánh hay bất kỳ biện pháp tu từ nào mà bạn đã quá quen thuộc khi đọc trên sách báo.
ii. Không bao giờ dùng một từ dài khi một từ ngắn có thể diễn đạt cùng một ý.
iii. Nếu có thể lược bỏ một từ mà không làm mất nghĩa, hãy lược bỏ nó.
iv. Không bao giờ dùng thể bị động khi có thể dùng thể chủ động.
v. Không bao giờ sử dụng cụm từ nước ngoài, thuật ngữ khoa học hay biệt ngữ nếu có thể tìm được một từ tiếng Anh thông dụng thay thế.
vi. Hãy phá vỡ bất kỳ quy tắc nào ở trên còn hơn là viết ra điều gì đó lủng củng hoặc vô nghĩa.
Những quy tắc này nghe có vẻ đơn giản, và thực sự là như vậy, nhưng để thực hiện được, người viết phải thay đổi sâu sắc tư duy của mình, nhất là khi đã quen viết theo lối văn hoa kiểu cách đang thịnh hành. Một người có thể tuân theo tất cả những quy tắc trên mà vẫn viết dở, nhưng ít nhất, họ sẽ không tạo ra thứ văn chương lộn xộn như năm ví dụ mà tôi đã trích dẫn ở đầu bài viết này.
Ở đây, tôi không bàn về việc sử dụng ngôn ngữ trong văn học, mà chỉ nói về ngôn ngữ như một công cụ để truyền đạt tư tưởng thay vì che đậy hay bóp méo nó. Stuart Chase và một số người khác từng lập luận rằng mọi từ ngữ trừu tượng đều vô nghĩa, và từ đó kêu gọi một thái độ bàng quan về chính trị. Nếu bạn không biết chính xác chủ nghĩa phát xít là gì, làm sao bạn có thể đấu tranh chống lại nó? Ta không cần tin vào những điều ngớ ngẩn như vậy, nhưng cũng nên nhận ra rằng tình trạng hỗn loạn chính trị hiện nay có liên quan đến sự suy thoái của ngôn ngữ, và ta có thể cải thiện phần nào tình hình bằng cách bắt đầu từ việc chỉnh sửa chính cách viết và cách nói của mình. Nếu bạn đơn giản hóa tiếng Anh của mình, bạn sẽ tránh được những điều ngớ ngẩn nhất của thói viết khuôn sáo. Bạn sẽ không thể nói thứ ngôn ngữ chính trị kiểu mẫu, và nếu bạn thốt ra một câu ngu ngốc, sự ngu ngốc của nó sẽ lộ rõ ngay cả với chính bạn. Ngôn ngữ chính trị—và điều này đúng với mọi phe phái, từ bảo thủ đến vô chính phủ—được thiết kế để khiến những lời dối trá nghe có vẻ trung thực, biến những hành vi tàn bạo trở nên có thể chấp nhận, và khoác lên những điều vô nghĩa một lớp vỏ có vẻ vững chắc. Ta không thể thay đổi tất cả những điều này ngay lập tức, nhưng ít nhất ta có thể thay đổi thói quen của chính mình, và đôi khi, nếu ta chế giễu đủ mạnh, ta có thể tống tiễn một số cụm từ cũ rích, vô dụng—như “bàn tay sắt”, “gót chân Achilles”, “ổ phản động”, “cái nôi”, “phép thử axit”, “địa ngục trần gian” [jackboot, Achilles’ heel, hotbed, melting pot, acid test, veritable inferno] hay những mớ rác rưởi ngôn từ khác—vào thùng rác, đúng nơi chúng thuộc về.
------
[1] Một ví dụ điển hình là sự thay đổi trong cách gọi tên các loài hoa ở Anh. Những tên gọi dân dã từng được sử dụng cho đến gần đây đang dần bị thay thế bằng những tên gốc Hy Lạp, như snapdragon (hoa mõm chó) trở thành antirrhinum, forget-me-not (hoa lưu ly) trở thành myosotis, v.v. Thật khó để tìm ra lý do thực tế cho sự thay đổi này; có lẽ đó chỉ là một sự quay lưng bản năng với những từ ngữ quen thuộc, kèm theo cảm giác mơ hồ rằng từ gốc Hy Lạp nghe có vẻ khoa học hơn.
[2] Một ví dụ khác về văn phong phức tạp và khó hiểu:
"Sự toàn diện trong nhận thức và hình ảnh của Comfort, một cách kỳ lạ lại mang nét của Whitman về mặt phạm vi, nhưng gần như đối lập hoàn toàn về sự thôi thúc thẩm mỹ, tiếp tục gợi lên một cảm giác mơ hồ, chồng chất, về sự tàn nhẫn, về một sự tĩnh lặng vô tận không thể lay chuyển... Wrey Gardiner thành công nhờ nhắm thẳng vào mục tiêu đơn giản với độ chính xác cao. Chỉ có điều, chúng không thực sự đơn giản, và trong nỗi buồn mãn nguyện này còn ẩn chứa nhiều hơn cả sự cay đắng ngọt ngào của sự cam chịu trên bề mặt." (Poetry Quarterly)
“Comfort’s catholicity of perception and image, strangely Whitmanesque in range, almost the exact opposite in aesthetic compulsion, continues to evoke that trembling atmospheric accumulative hinting at a cruel, an inexorably serene timelessness… Wrey Gardiner scores by aiming at simple bullseyes with precision. Only they are not so simple, and through this contented sadness runs more than the surface bitter-sweet of resignation.”
[3] Một cách để chữa thói quen sử dụng cấu trúc not un- là ghi nhớ câu sau:
"Một con chó không hẳn là không đen đang rượt đuổi một con thỏ không hẳn là không nhỏ băng qua một cánh đồng không hẳn là không xanh."
“One can cure oneself of the not un- formation by memorizing this sentence: A not unblack dog was chasing a not unsmall rabbit across a not ungreen field.”
Horizon, tháng 4 năm 1946
Dịch bởi: Đỗ Trình Dương & ChatGPT
Last updated
Was this helpful?